HẠ TỘC BI KÝ
Phiên âm:
Cái văn: Thuỷ chi hữu nguyên nhiên hậu lưu vi hà cừ, tán vi cấu hác, mộc chỉ hữu căn nhiên hậu phu vi kha diệp, xương vi hoa thực, nhân chỉ
bản hồ tổ kỳ do thuỷ chi hữu nguyên mộc chi hữu căn hồ.
Ngã Hạ tộc nguyên tích tự Đông Sơn huyện, Mai Xá, y xá đẳng xã, kế thế trâm anh thị diệc Thanh Hoa, nhất vọng tộc quyết hậu chi phân phái biệt, nhất cư vu Sơn Tây trấn, Thạch Thất huyện, Tường Phiêu, Tuy Lộc nhị xã, nhất cư vu cai hạt Từ Liêm huyện, Bá Dương xã, (Kim thuộc Hà Nội), hựu phân cư vu cai huyện Thượng Hội xã Phàm sở cư tụ dĩ khoa mục danh.
Ngã thuỷ tổ Bá Dương chỉ di cư vu Kinh Bắc trấn (cải Bắc Ninh tỉnh) Võ Giàng huyện, Đáp cầu xã, sinh Hạ tam chi, chí kim ngũ đại, kỳ dinh tài khoa mục dữ Thanh Hoa, Sơn Tây nhất thể.
Ngã Hiển Khảo Hạ Quý Công tự Bá Thuỳ, Thuy Mẫn Hiến, đích mẫu Trần Quí Thị, hiệu Từ Hậu, sinh mẫu Trần Kim Thị, hiệu Từ Khánh. Thuỷ sinh ngã thời hứa vi Bảo Lộc huyện, Thanh Lễ xã, Tri Lễ thôn. Nguyễn tộc ân công tự Phúc Hậu, tỷ hiệu Diệu Tín, chi thức cốc tử mệnh danh Nguyễn Văn Bang, cập trưởng đầu nhập Lại Bộ Tư Văn Hàn tầm mông cải Chính tuân, chí thăng bổ bản tỉnh Phiên tư chính bát phẩm; phụng phái toạ chưng cần dịch, chính quan tu Chức Lang. Hạ Bá Chính tự niệm dịch thê cửu viễn bất tri hà sở tự xuất, viên xâm vu thạch dĩ thọ kỳ truyền.
Ư hư! Minh đức dã viễn hĩ tố nguyên nguyên bản bản chỉ tự lai kế tự kỳ bạch, chi tự lai kế tự kỳ bạch, chi đây tử từ tôn chi phất thế.
Hoàng Triều Tự Đức thập niên tuế thứ Đỉnh Ty báo nguyệt nhị thập nhị nhật
Hạ Bá Chính bi ký
Thừa tả bi ký thân diệt, Hạ Bá Hoàn ký
(Trên đây là nguyên văn chữ nho khắc trên bia đá)
BÀI KÝ TRÊN BIA HỌ HẠ
Tộc Phả Hạ Bá Đáp Câu NHỮNG TƯ LIỆU CỔ
Bản dịch:
BÀI KÝ TRÊN BIA HỌ HẠ
Từng nghe: Sông suối có nguồn, sau chia ra thành ngòi, thành rạch, cây cối có gốc rễ, sau đâm cành, mọc lá rồi đâm hoa kết quả. Con người có cội nguồn là ở Tổ tiên cũng như sông ngòi có nguồn, cây cối có rễ vậy.
Gốc tích họ Hạ ta ở những xã Mai Xá, Y Xá thuộc huyện Đông Sơn nối đời làm quan. Đây cũng là một dòng họ lớn ở Thanh Hoa. Sau này phân chia chi phái. Một (chi) đến ở hai xã Tường Phiêu, Tuy Lộc thuộc huyện Thạch Thất, trấn Sơn Tây. Một (chi) đến ở xã Bá Dương huyện Từ Liêm thuộc hạt này (sau là Hà Nội). Chi này lại chia có nhánh đến ở xã Hội Thượng thuộc huyện ấy. Phàm những chi nhánh của họ Hạ đến (ở đâu) cũng nổi tiếng về thi cử đỗ đạt.
Cụ Thuỷ tổ ta thuộc chỉ ở xã Bá Dương, sau dời đến xã Đáp Cầu, huyện Võ Giàng, thuộc trấn Kinh Bắc (sau đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Các cụ sinh thành được 3 chi, đến nay đã năm đời.
Số con trai của cải (đến việc) thi cử đỗ đạt đều giống như các chi ở Sơn Tây và Thanh Hoa.
Cụ thân sinh ta là Hạ Quý Công, tên tự là Bá Thùy, tên Thuy là Mẫn Hiến. Mẹ cả họ Trần, tên hiệu là Từ Hậu, mẹ đẻ họ Trần, tên hiệu là Từ Khánh.
Khi ta mới sinh ra được (các cụ) cho làm con nuôi cụ họ Nguyễn tên tự là Phúc Hậu, cụ bà tên hiệu là Diệu Tín, người thôn Tri Lễ, xã Thanh Lễ,
huyện Bảo Lộc và được đặt tên là Nguyễn Văn Bang, lớn lên được vào làm việc tại ty văn hàn thuộc Bộ Lai, ít lâu sau được đổi lên làm Chánh tuần, sau được thăng bổ làm Phiên tư của tỉnh nhà, hàm bát phẩm, (rồi lại) được giữ các chức chưng cần dịch chính quan tu chức lang.
Hạ Bá Chính ta tự ngẫm rằng các đời xa dần không biết nguồn gốc sinh ra từ đâu, bèn dựng bia khắc vào đá để lưu truyền dài lâu.
Than ôi! Đức sáng truyền mãi tấm lòng nhớ về cội nguồn (1) con cháu nối đời không được thay đổi.
Dựng bia ngày 22 tháng 8 năm Định Ty niên hiệu Tự Ðức thứ 0 (năm 1857)
Hạ Bá Chính dựng bia ký
Thừa mệnh viết bài ký trên bia, cháu ruột Hạ Bá Hoàn ký
Người dịch
Phạm Văn Thắm – Viện Hán Nôm
(1) Trên bia bị vỡ, sứt mất hai chữ, chúng tôi tạm dịch như vậy. BBT đã tìm thấy 2 chữ (Kỳ Bạch) nhưng vẫn giữ nguyên bản dịch
